This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2018

Chương trình giáo dục phổ thông mới: Giảm giờ học có đồng nghĩa giảm áp lực cho học sinh?

Bên cạnh những lời khen về việc chương trình phổ thông mới đã giảm tải cho học sinh thì một số nhà giáo vẫn còn nhiều băn khoăn. Có ý kiến cho rằng, nhìn qua ở bậc THPT thì đúng là chương trình mới có giảm giờ học so với chương trình cũ nhưng giảm giờ học không đồng nghĩa với giảm áp lực cho học sinh.


Chiều 27/12, tại Hà Nội, Bộ GD-ĐT đã chính thức công bố chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới gồm Chương trình tổng thể và 27 chương trình môn học, hoạt động giáo dục. 

Chương trình giáo dục phổ thông mới: Giảm giờ học có đồng nghĩa giảm áp lực cho học sinh?

GS Nguyễn Minh Thuyết (đứng), tổng chủ biên chương trình, khẳng định chương trình mới đã giảm tải nhiều - Ảnh: Người lao động.



Một trong những điểm mà dư luận xã hội trông chờ nhất từ chương trình GDPT mới là Bộ GD-ĐT sẽ giảm tải như thế nào khi mà chương trình giáo dục phổ thông hiện hành đang được xem là “quá tải” về kiến thức, gây áp lực cho học sinh.

Tổng thời lượng học tập theo chương trình GDPT mới ở cả 3 cấp học là 8.172 giờ (60 phút/giờ), trong đó, thời lượng học tập ở cấp tiểu học là 2.817,5 giờ; thời lượng học tập ở cấp THCS là 3.070,5 giờ; thời lượng học tập ở cấp THPT là 2.284 giờ, báo Công an nhân dân thông tin.

Theo chương trình hiện hành, học sinh tiểu học học 2.353 giờ, trong khi đó chương trình mới là chương trình học 2 buổi/ngày (9 buổi/tuần), tính trung bình học sinh học 1,8 giờ/lớp/buổi học. Với thời lượng tăng, học sinh tiểu học sẽ có điều kiện tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí nhiều hơn.



Ở THCS, theo Chương trình GDPT hiện hành, học sinh học 3.124 giờ. Như vậy, thời lượng học ở THCS giảm 53,5 giờ. Ở cấp THPT, theo Chương trình GDPT hiện hành, học sinh Ban cơ bản học 2.546 giờ; học sinh Ban A, Ban C học 2.599 giờ; điều này cũng đồng nghĩa với việc, so với chương trình hiện hành, chương trình mới giảm khoảng hơn 200 giờ.

Mục tiêu tăng thời lượng ở cấp tiểu học theo hướng dạy 2 buổi 1 ngày trong chương trình GDPT mới là để học sinh có thời gian tham gia các hoạt động thể thao, văn hóa trong nhà trường; tăng cường giáo dục kỹ năng, an toàn cho trẻ em đang ở độ tuổi mong manh, hiếu động. Còn đối với bậc THCS, việc thời lượng tiết học được giảm tải là do đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích hợp liên môn; ở cấp THPT, giảm tiết học nhờ phân hóa theo hướng tăng cường các môn tự chọn”- GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên chương trình GDPT mới cho biết.



Chương trình GDPT mới cũng giảm mạnh số lượng môn học so với chương trình hiện hành. Ở cấp tiểu học, lớp 1 và lớp 2 có 7 môn học; lớp 3 có 9 môn học; lớp 4 và lớp 5 có 10 môn học

Tuy nhiên, dù Bộ GD-ĐT khẳng định chương trình đã được giảm tải nhưng nhiều nhà giáo vẫn tỏ ra băn khoăn, lo lắng.

Chia sẻ với báo Người lao động, ông Bùi Gia Hiếu, Hiệu trưởng Trường THPT Nhân Việt (TP HCM), cho biết chương trình lần này có ưu điểm là cách tiếp cận của đội ngũ viết chương trình đã khác, giống với các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, đó là xây dựng chuẩn đầu ra cho người học, từ chuẩn đầu ra quay lại để xây dựng chương trình sao cho phù hợp. Không giống như chương trình cũ là xây dựng chương trình trước. Cũng theo ông Hiếu, chương trình mà Bộ công bố đã chú trọng đến các hoạt động trải nghiệm, giáo dục STEM cho học sinh.



Trong khi đó, ông Huỳnh Thanh Phú, Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Du (TP HCM), cho biết ông không cảm thấy hào hứng với chương trình giáo dục phổ thông chính thức mà Bộ GD-ĐT công bố, lý do là chương trình không thay đổi so với dự thảo chương trình trước đó.

"Nhìn qua ở bậc THPT thì đúng là chương trình mới có giảm giờ học so với chương trình cũ nhưng giảm giờ học không đồng nghĩa với giảm áp lực cho học sinh" - ông Phú cho biết.


Chương trình giáo dục phổ thông mới: Giảm giờ học có đồng nghĩa giảm áp lực cho học sinh?

Sẽ giảm tải lượng kiến thức hàn lâm, tăng trải nghiệm sáng tạo trong chương trình GDPT mới - Ảnh minh họa.


Theo ông Phú, chương trình phổ thông mới đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào vấn đề làm sao giáo dục toàn diện năng lực, phẩm chất cho học sinh mà quên mất giáo dục cá thể. Ngoài ra, vấn đề đào tạo của các trường sư phạm thế nào cũng chưa được đề cập.

“Bản thân là một nhà quản lý, tôi chưa thấy được hơi thở của thế kỷ 21, của cách mạng 4.0, nó chưa hiện hữu trong các kiến thức của chương trình. Tôi cảm thấy chương trình mới sẽ gây khó cho người thầy và HS. Và một điều đang gây thách thức cho người thầy là việc dạy tích hợp. Liệu vài năm nữa, các trường đại học chuyên ngành sư phạm có thể đào tạo nguồn giáo viên đáp ứng nhu cầu của chương trình hay không?” - thầy Phú chia sẻ băn khoăn với báo Pháp luật TP. Hồ Chí Minh.

Thầy giáo Đỗ Đức Anh (Trường THPT Bùi Thị Xuân, quận 1, TP.HCM) cũng bày tỏ: “Chương trình mới có chiều sâu nhưng dường như kiến thức quá sâu so với trình độ của HS THPT.

GV, HS, phụ huynh trông đợi một chương trình mới cần phải có tính ứng dụng cao vào thực tế cuộc sống. Chương trình mới dù nói gì cũng cần phải kế thừa những điều tích cực của chương trình cũ. Tôi mong sự đổi mới cần quyết liệt, mạnh mẽ nhưng phải có sự chuẩn bị đầy đủ và không gây bất ngờ đối với thầy và trò”.

Minh Minh (T/h)

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2018

Tiếng anh cho người đi làm: Những đặc trưng rất riêng

Tiếng Anh được coi là công cụ giúp người đi làm tăng hiệu suất và hiệu quả công việc. Vì thế, nhu cầu học tiếng Anh cho người đi làm hiện nay đặc rất lớn. Khác với những đối tượng học sinh, sinh viên, chương trình và cách học tiếng Anh của người đi làm có những đặc trưng riêng biệt dưới đây

Tiếng anh cho người đi làm: Những đặc trưng rất riêng

Tiếng Anh cho người đi làm, tại sao?

Khác với những đối tượng khác, như học sinh - sinh viên, người đi làm dành phần lớn thời gian của mình cho công việc, nhu cầu học tiếng Anh của người đi làm cũng phục vụ cho công việc. Bởi vậy, việc học tiếng Anh của người đi làm có những đặc trưng rất riêng.

Tâm lý chung của người đi làm khi tham gia lớp học là sợ lâu không đụng đến tiếng Anh thì sẽ khó tiếp thu và theo kịp mọi người, đặc biệt là việc tham gia các lớp học đại trà có lẫn nhiều đối tượng người học, anh Sơn (ngân hàng Maritime bank) hài hước: “Có lần theo học một trung tâm, lớp có mỗi mình già nhất, còn lại toàn các bạn đang đi học còn rất ít tuổi, các bạn vẫn hay gọi đùa mình là chú, thực sự rất khó hòa đồng”. Lứa tuổi khác nhau thì tâm lý tham gia lớp học cũng sẽ khác, dẫn đến sự tương tác và chia sẻ kiến thức sẽ khó khăn.

Chưa kể người đi làm sẽ có lúc công việc quá bận hoặc đi công tác, nên cần có một chính sách học bù bài nghỉ, bảo lưu khóa học tiện lợi để đảm bảo theo hết được các bài học.

Sau một ngày làm việc căng và mệt, thì người đi làm cần một lớp học tiếng Anh có không khí học tập thoải mái, sinh động để có thể có hiệu quả học tập cao, để vừa có thể học vừa có thể giúp người đi làm xả stress.

Tiếng Anh cho người đi làm ra đời như thế nào?

Với phần lớn người đi làm, kiến thức tiếng Anh học được qua trường lớp không đủ để ứng dụng vào thực tế giao tiếp và cũng sớm mai một sau một vài năm làm việc. Trong khi đó, tiếng Anh giao tiếp lại đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với công việc, thậm chí còn là chìa khóa thăng tiến trong sự nghiệp của đối tượng học viên đặc thù này.

Vì lý do đó, dù rất bận rộn với công việc và gia đình nhưng nhiều người đi làm vẫn cố gắng dành thời gian để học tiếng Anh. Tuy nhiên, nhiều người đầu tư rất nhiều thời gian học nhưng kết quả đạt được không khả quan, khi tiếng Anh ứng dụng vô cùng rộng rãi mà người đi làm thì cần tiếng Anh tiếng Anh phục vụ trực tiếp cho công việc của mình.

Từ đó, tiếng Anh cho người đi làm ra đời như một xu hướng tất yếu với mong muốn đáp ứng nhu cầu, nâng cao khả năng cải thiện ngữ pháp tiếng anh , giao tiếp tiếng Anh trong công việc của người đi làm.

Người đi làm cần học những gì?

Trong công việc hằng ngày, người đi làm có thể tiếp xúc các tài liệu tiếng Anh, giao tiếp với khách nước ngoài, viết email, báo cáo bằng tiếng Anh, đi công tác…Kĩ năng quan trọng nhất đối với người đi làm là giao tiếp và kĩ năng viết. Tuy nhiên để có thể nghe nói và viết tốt được thì bắt buộc phải có một vốn từ và ngữ pháp nhất định.

Có một thực tế hiện nay của những người học tiếng Anh, không chỉ riêng người đi làm, đó là khả năng phát âm. Một ví dụ rất điển hình là một câu tiếng Anh được viết ra để đọc thì rất nhiều người hiểu, nhưng cùng câu đó được người nước ngoài nói thì lại rất khó khăn trong việc nghe - hiểu. Vậy vấn đề khó khăn ở đây không phải là từ vựng, mà là khả năng phát âm chuẩn - nền tảng của nghe và nói tiếng Anh.

Người đi làm khá bận với công việc nên không có nhiều thời gian, hơn nữa người đi làm học tiếng Anh để sử dụng trong công việc, nên nội dung học cần được tập trung vào các vấn đề hữu dụng, ứng dụng trong công việc hàng ngày. Ví dụ như tiếp khách thì nói tiếng Anh như thế nào, giới thiệu sản phẩm dịch vụ công ty thì nói ra sao, viết email báo cáo hoặc tham gia một cuộc họp thì sử dụng tiếng Anh như thế nào.

Sau một thời gian học tiếng Anh, mình có cảm giác quan trọng nhất trong tiếng Anh là “rèn luyện thường xuyên”. Ngày nào cũng học, một chút cũng được. Nhưng không như bọn trẻ bây giờ, tiếp xúc với tiếng Anh sớm, học rất nhanh. Chúng ta lớn, tiếp xúc với tiếng Anh trễ hơn, phần lớn đã đi làm. Thời gian học tiếng Anh rất hạn hẹp, không thể đến trung tâm, thiếu giáo trình, hoặc có giáo trình thì ban đêm về nhà cũng khá mệt mỏi, chẳng muốn đụng đến nữa. Vậy chúng ta có thể tận dụng khoảng nghỉ giải lao trong buổi sáng và buổi trưa để học ngay tại cơ quan.

Tiếng Anh cho người đi làm lên ngôi

Thật vậy, với dân văn phòng, tiếng Anh cho người đi làm có nhiều ưu điểm vượt trội so với những loại tiếng Anh khác. Khoanh vùng được lượng kiến thức cần thiết trong giao tiếp văn phòng, loại tiếng Anh này vừa giúp người đi làm tiết kiệm được thời gian quý báu vừa mang lại hiệu quả không ngờ trong việc ứng dụng vào thực tế công việc.

Trong thời gian trở lại đây, lượng tìm kiếm hàng tháng cho từ khóa tiếng Anh cho người đi làm liên tục tăng cao, chứng tỏ được sức hút lan tỏa của loại tiếng Anh thiết thực này. Cùng lúc đó, các trung tâm tiếng Anh cũng mở rộng đào tạo tiếng Anh cho người đi làm, dần dần đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của học viên.
>> Nguồn: kenhtuyensinh

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2018

Những khó khăn khi học tiếng Anh của trẻ em

Sự hiểu biết và trợ giúp kịp thời của bố mẹ sẽ giúp bé nhanh chóng khắc phục và phát triển vốn tiếng Anh vững chắc hơn.

Tiếng Anh đã trở thành một phương tiện quan trọng trong thời đại hội nhập hiện nay. Kéo theo đó, nhu cầu cho con em mình sớm tiếp cận tiếng Anh đã trở thành một trào lưu cực phổ biến. Viễn cảnh bé ở nhà nói tiếng Anh líu lo và phát triển thành một người thông thạo tiếng Anh là điều mà ai cũng mong muốn và hướng tới.

Tuy vậy, thực tế thường sẽ không dễ dàng như mong đợi. Cũng giống như việc học bơi sẽ phải sặc nước, học viết sẽ phải lem mực, việc các bé gặp vấn đề trong quá trình học tiếng Anh là không thể tránh khỏi. Lúc này, sự hiểu biết và trợ giúp kịp thời của bố mẹ sẽ giúp bé nhanh chóng khắc phục và phát triển vốn tiếng Anh vững chắc hơn.

Bài viết sẽ điểm qua những vấn đề phổ biến nhất mà các bé thường gặp trong quá trình học, cũng như lí do và phương án giúp bé khắc phục nhanh nhất.

Những khó khăn khi học tiếng Anh của trẻ em


Không nhớ từ vựng

Đây là vấn đề cơ bản nhất mà các bé thường gặp phải. Kể cả theo một thời gian dài, việc bé không thể nhớ được từ vựng vẫn sẽ xảy ra thường xuyên. Điều này có liên quan đến phương pháp học cũng như tâm lí học của trẻ.

Về nguyên nhân tâm lí, thường việc không nhớ từ vựng xuất phát từ tâm lí lơ là hoặc chủ quan trong việc học tiếng Anh của bé. Có những bé được học tiếng Anh từ sớm, hoặc được bố mẹ dạy tiếng Anh bằng những phương pháp khác so với việc học tiếng Anh truyền thống tại trường, khiến cho bé không coi trọng cách học hiện tại. Cũng có khả năng, bé không có hứng thú với việc học tiếng Anh , dẫn đến việc học và nhớ từ một cách qua loa, không đưa được từ vựng vào sâu trí nhớ. Đây là những điều mà bố mẹ cần quan tâm và hỗ trợ bé kịp thời, vì nó dễ dẫn đến việc bé chán ghét tiếng Anh.

Về nguyên nhân phương pháp học, có rất nhiều lí do dẫn đến việc bé không nhớ được từ vựng. Thường vấn đề chủ yếu của các bé là phương pháp học không chặt chẽ, không giúp bé luyện tập và sử dụng được vốn từ vựng đã học. Ví dụ như bé chỉ được học từ vựng trên lớp, nhưng không có bài tập để sử dụng những từ vựng đó, khiến cho số lượng từ vựng có thể nhớ sau giờ học sẽ giảm dần. Đi xa hơn, có thể là bé chỉ được sử dụng tiếng Anh trong giờ học, và sau giờ học thì toàn bộ tiếng Anh được cất qua một bên. Với tình trạng này, không chỉ các bé mà cả người lớn cũng sẽ bị mai một đi vốn từ vựng của mình.

Cũng có nguyên nhân khác dẫn đến việc bé khó nhớ từ vựng đến từ phương pháp học. Có thể là số lượng từ vựng mỗi lần học của bé quá nhiều, dẫn đến quá sức cho bé khi ghi nhớ vào đầu. Hiếm hơn thì có thể bé quá lệ thuộc vào việc sử dụng từ điển, khiến cho ý thức cố gắng ghi nhớ từ vựng của bé bị giảm sút mà có thể bé không nhận ra được. Điều này cũng sẽ khá phiền phức nếu trở thành thói quen lâu dài.

Để khắc phục được vấn đề đến từ phương pháp học , cách tốt nhất là bố mẹ cần tiến hành đo lường trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ, với mỗi một từ mới thì bé cần học lại bao nhiêu lần thì nhớ hoàn toàn, bé cần làm bao nhiêu bài tập thì nhớ được hoàn toàn, thời gian cách nhau giữa thời điểm bé học từ mới và thời điểm bé được vận dụng từ mới vào tình huống giao tiếp tiếng Anh thực tế là bao lâu thì tốt nhất…

Song song với đó, bố mẹ phải tìm ra được phương pháp học nào là phù hợp với bé nhất, ví dụ bé sử dụng flashcards so với làm bài tập nối từ với nghĩa, thì phương pháp nào sẽ hiệu quả hơn. Lí tưởng nhất ở đây, là bố mẹ giúp bé đề ra được phương án kết hợp ít nhất 2 phương pháp học từ vựng, giúp môi trường luyện tập và sử dụng từ vựng tiếng Anh của bé phong phú hơn và ghi nhớ tốt hơn.

Phát âm sai

Thực ra thì đây không phải là vấn đề mà chỉ có các bé gặp phải. Bạn có thể bắt gặp những người lớn phát âm tiếng Anh sai hàng ngày. Và thực tế, vấn đề này phần lớn đến từ người dạy hoặc môi trường học tiếng Anh của bé.

Vấn đề phát âm sai trong môi trường học đường ở Việt Nam đã không còn là vấn đề mới lạ nữa. Chuyện người này phát âm sai và sau đó chỉ lại cho người khác cùng phát âm như vậy cũng là tình huống rất phổ biến. Cách tốt nhất và nhanh nhất để giải quyết vấn đề này, là luôn tham khảo kĩ cách phát âm trong từ điển khi học để đối chiếu. Sẽ rất lí tưởng nếu bố mẹ trang bị cho bé các loại Kim từ điển, hoặc cài đặt các phần mềm học tiếng Anh online trên máy, giúp bé có thể nhanh chóng tự tham khảo phát âm bất cứ lúc nào.

Một điều quan trọng hơn nữa, bố mẹ cần tạo được môi trường nói tiếng Anh để bé luôn được ứng dụng tiếng Anh vào thực tế, giúp ổn định và phát triển tốt phát âm của mình nhé.

Không tự nói được ý của mình

Thật ra thì đây là một vấn đề mang tính “tiến hoá”, dưới điều kiện bé đang có vấn đề về việc nhớ từ vựng, cộng với tâm lí e ngại hoặc không dám nói, dẫn đến khả năng trình bày bằng tiếng Anh gặp trở ngại.

Với vấn đề này, điều kiện tiên quyết là bố mẹ phải giúp bé cải thiện việc học và nhớ từ vựng tiếng Anh. Bé cần phải có vốn từ cơ bản thì mới có thể xâu chuỗi lại ý mình muốn diễn đạt.

Song song với đó, tốt nhất là bố mẹ cần tạo ra môi trường nói tiếng Anh cho bé, giúp bé quen dần với việc sử dụng tiếng Anh trong tình huống thực tế. Có thể những lần đầu, bé sẽ vẫn bỡ ngỡ và không nói được nhiều. Nhưng bố mẹ đừng lo lắng, vì bất cứ điều gì cũng cần phải luyện tập mà. Chỉ cần bé có thể vượt qua trở ngại ban đầu, thì chuyện bé có thể nói tiếng Anh líu lo chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.

Chán nản, ghét tiếng Anh

Đây chính là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà các bé có thể gặp phải. Có thể vì bản thân bé không có chút nào hứng thú với một ngôn ngữ mới. Tuy vậy, phần lớn vấn đề này đến từ một quãng thời gian dài gặp khó khăn khi học tiếng Anh, cũng giống như bất cứ một môn học nào khác.

Mấu chốt xử lí vấn đề này, chính là bố mẹ cần tìm hiểu được chính xác lí do vì sao bé không thích học tiếng Anh. Nếu vì bản thân bé vốn không có hứng thú, bố mẹ có thể tìm các hình thức khơi gợi cảm hứng cho bé như các cuốn t ruyện tranh hoặc truyện chữ đơn giản bằng tiếng Anh , hoặc các đoạn phim tiếng Anh có nội dung hấp dẫn nhưng tiếng Anh lại đơn giản chẳng hạn.

Còn nếu sự chán ghét tiếng Anh này đến từ việc gặp khó khăn khi học trong một thời gian dài, vậy thì sẽ cần bố mẹ phải bỏ ra một phen tâm sự và đánh giá tình trạng học tiếng Anh hiện tại của bé rồi. Mấu chốt là, bạn phải biết được điểm bất hợp lí nào đang tồn tại giữa khả năng học tiếng Anh của bé và phương pháp học tiếng Anh bé đang theo. Từ đó, chúng ta lại sửa đổi hoặc đưa ra những phương án thay thế, miễn sao giúp bé có hứng thú và tiến bộ nhất trong quá trình học tiếng Anh.

Và luôn nhớ, điều quan trọng nhất là cần phải để bé thoải mái và thực sự hứng thú với tiếng Anh. Bố mẹ đừng nên ép buộc hay yêu cầu bé phải tiếp tục việc học khi bé vẫn đang gặp khó khăn. Hãy bỏ thời gian ra để tìm hiểu, thì kết quả học tiếng Anh của bé chắc chắn sẽ thay đổi tích cực hơn rất nhiều đấy.
>> Nguồn: antoree.

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2018

Đánh gục tâm lý sợ nói tiếng Anh của người Việt


Dù được học tiếng Anh trong nhiều năm nhưng chúng ta luôn cảm thấy khó khăn, và e sợ khi buộc phải giao tiếp hay sử dụng ngôn ngữ này một cách thành thạo. Thậm chí nhiều người sau khi dành cả 10 năm để học tiếng Anh, có vốn từ vựng kha khá và nắm chắc tất cả các quy tắc ngữ pháp cũng không tránh khỏi những khó khăn khi nói, giao tiếp bằng tiếng Anh ở một số tình huống trong cuộc sống. Vậy nỗi sợ này đến từ đâu và làm sao chúng ta vượt qua được nó để có thể giao tiếp với người khác hiệu quả hơn? Hãy đọc bài viết dưới đây để biết câu trả lời nhé!

Đánh gục tâm lý sợ nói tiếng Anh

Tại sao chúng ta sợ nói tiếng Anh?

Trước hết để vượt qua được tâm lý sợ nói tiếng Anh, bạn cần phải hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến nỗi sợ đó của mình. Một khi đã tìm ra nguyên nhân chúng ta sẽ dễ dàng có được cách giải quyết. Với những người học tiếng Anh nói riêng và ngoại ngữ mới nói chung, chúng ta thường cảm thấy sợ khi phải nói tiếng Anh vì những lý do sau đây:

1. Ngại nói

Rất nhiều người trong chúng ta ngại khi giao tiếp với người khác. Chúng ta thà dành một buổi tối yên tĩnh để đọc sách hơn là ra ngoài hay đi party. Có thể là vì sợ trò chuyện với người lạ. Nhưng cũng có thể là vì không có nhu cầu giao tiếp với bất kỳ ai (nhất là những người hướng nội – introvert). Dù là nguyên do gì thì việc không chủ động trò chuyện với người khác sẽ là một hạn chế khiến khả năng nói tiếng Anh khó được cải thiện.

 2. Vốn từ vựng không đủ nhiều

Đây có lẽ là cái cớ mà nhiều người vin vào nhất khi họ không nói tiếng Anh. Tất nhiên là bạn cần biết một số từ vựng nhất định trước khi bắt đầu nói, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn phải chờ cho đến khi vốn từ của mình thật nhiều rồi mới giao tiếp tiếng Anh với người khác. Về cơ bản, chúng ta chỉ cần biết một số câu nói đơn giản là đã có thể bắt đầu một cuộc trò chuyện rồi.

3. Sợ mắc lỗi

Đa phần người học tiếng Anh ngại nói vì họ sợ sai. Họ không tự tin, xấu hổ và mất bình tĩnh mỗi khi phải nói bằng tiếng Anh. Nguyên nhân chính là vì họ chưa rèn được cho mình phản xạ nói tự nhiên nên mỗi khi giao tiếp với người khác họ sẽ thấy lúng túng và không biết nên trả lời như thế nào. Một số khác có thể rất muốn thực hành tiếng Anh nhưng nỗi sợ sai lại ngăn họ lại. Họ không tự tin vào khả năng ngoại ngữ của bản thân và sợ người khác thấy thiếu sót của mình.

4. Luôn lo lắng, căng thẳng

Đây là một trạng thái tâm lý bình thường mà ai cũng từng gặp phải. Tuy nhiên có một số người, mức độ lo lắng và căng thẳng sẽ cao hơn. Chưa bàn đến việc học ngoại ngữ, trong cuộc sống hằng ngày, những người này thường tỏ ra khó chịu, bồn chồn và khó kiểm soát được bản thân. Nguyên nhân của những trạng thái căng thẳng, lo âu này có thể xuất phát từ các yếu tố sinh học như di truyền, cơ thể suy nhược hay từ các yếu tố ngoại cảnh như môi trường sống,…

Làm thế nào để vượt qua nỗi sợ nói tiếng Anh?

Đánh gục tâm lý sợ nói tiếng Anh


1. Chấp nhận rằng sợ hãi là điều bình thường và bạn cần có đủ can đảm để đối mặt với nó

Chúng ta luôn nghĩ rằng những người đã giỏi rồi thì sẽ không cảm nhận được nỗi sợ khi phải nói tiếng Anh, và rằng một ngày nào đó khi tiếng Anh của mình đủ tốt chúng ta sẽ không còn thấy sợ nữa. Nhưng sự thật là những người thành thạo tiếng Anh hay thậm chí những người bản ngữ cũng có thể mang trong mình nỗi sợ khi phải giao tiếp với người khác. Sợ hãi là một phần của cuộc sống. Chúng ta sợ thật nhiều điều chứ đâu có riêng gì việc nói tiếng Anh. Bạn đã từng sợ nói trước đám đông chưa? đã từng run bần bật khi ngồi trong phòng phỏng vấn? đã từng ấp a ấp úng khi trò chuyện với cô gái mà mình đã thầm thương trộm nhớ từ rất lâu? Đấy, chúng ta sợ đủ thứ trên đời và tất nhiên đấy là một tâm lý bình thường mà ai cũng từng ít nhất dăm ba lần trải.  Nhưng để đi xa hơn chúng ta cần học cách đối mặt với những nỗi sợ đó. Mình rất thích câu nói này của Turgot : “Có những người không dám bước đi vì sợ gãy chân, nhưng sợ gãy chân mà không dám bước thì khác nào chân đã gãy.”

Hãy bước ra ngoài vùng an toàn của mình ngay thôi! Hãy tự hỏi bản thân, điều tồi tệ nhất có thể xảy ra nếu chúng ta nói tiếng Anh là gì. Khi bạn đã thật sự nghĩ đến điều tội tệ nhất, bạn sẽ thấy chúng chẳng có gì đáng sợ cả.

“Life begins at the end of your comfort zone.”

–Neale Donald Walsch

2. Chấp nhận rằng lỗi sai và những thử thách bạn đối mặt là một phần quan trọng trong hành trình học ngoại ngữ

Okay, chẳng có ai muốn mắc lỗi cả. Việc mắc lỗi khiến chúng ta cảm thấy thiếu tự tin và đôi khi là nguyên nhân làm nhiều người bỏ cuộc. Từ thuở còn nhỏ chúng ta đã được dạy rằng mắc lỗi là một điều không tốt, chúng ta phải tránh mắc lỗi. Nhưng bạn biết đấy, chúng ta trưởng thành lên từng ngày là nhờ việc mắc lỗi và học hỏi kinh nghiệm từ những lỗi lầm đó. Có một nỗi sợ vô hình mà chúng ta luôn bị ám ảnh là sợ bị người khác chê cười khi ta mắc lỗi. Nhưng tin mình đi, sẽ chẳng ai cười khi bạn mắc lỗi lúc học ngoại ngữ đâu.

Ừ thì đúng là khi tham gia một kỳ thi hay trình bày một bài thuyết trình trước đám đông, bạn cần nói chính xác và trôi chảy. Nhưng trong các tình huống khác, bạn hoàn toàn có thể mắc lỗi. Thực ra khi trò chuyện, người nghe chủ yếu sẽ chỉ tập trung vào nội dung của cuộc đối thoại – họ tiếp nhận thông tin chứ chẳng có ai chăm chăm để ý đến lỗi sai của bạn. Trừ khi những lỗi sai này ảnh hưởng đến nội dung và ý nghĩa của những gì bạn đang nói – Trường hợp tệ nhất có thể xảy ra là người đó sẽ yêu cầu bạn nhắc lại. Mà việc được yêu cầu nhắc lại thì đâu có gì đáng sợ, đúng không?

Nhưng hãy nhớ rằng, điều này không có nghĩa là bạn hoàn toàn có thể lờ đi những lỗi mà mình mắc phải khi nói (lỗi phát âm, ngữ pháp,..). Thay vào đó, hãy chấp nhận những lỗi đó như là một phần không thể thiếu khi học ngôn ngữ và tìm cách khắc phục chúng.

“One of the basic rules of the universe is that nothing is perfect. Perfection simply doesn’t exist…..Without imperfection, neither you nor I would exist”

― Stephen Hawking

3. Thay đổi hướng tập trung của bạn

Bạn có biết rằng việc lo lắng hay sợ hãi khi nói tiếng Anh không phải là vì khả năng tiếng Anh của bạn yếu. Nó liên quan đến vấn đề tâm lý nhiều hơn. Bạn tập trung quá nhiều năng lượng vào những suy nghĩ tiêu cực trước/ trong khi nói. Bạn sợ mình mắc lỗi, sợ người ta sẽ đánh giá mình. Và tất nhiên khi tất cả sự tập trung của bạn đều hướng đến việc lo lắng, sợ hãi thì làm sao nói trôi chảy cho được. Bây giờ, hãy dẹp cái tôi sang một bên và nói chuyện, chia sẻ chân thành với người khác. Hãy tập trung vào những gì bạn muốn nói với người đối diện và tận hưởng những khoảnh khắc đó thay vì mải mê lo lắng mấy lỗi sai nhỏ nhặt của mình.

Đồng thời hãy kết hợp với các hoạt động khác nhau để nâng cao khả năng tập trung như thiền, yoga, chạy bộ,.. Những hoạt động này đi kèm với chế độ ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng sẽ giúp bạn ngăn chặn được các trạng thái như căng thẳng, lo âu, và mất tập trung. Nhờ đó bạn sẽ có thêm tự tin để nói tiếng Anh trong bất kì trường hợp nào.

4. Làm chủ những cụm từ thiết yếu nhất

Có một số cụm từ (được gọi là Survival Words) mà bạn cần phải biết và nói trôi chảy trước khi bắt đầu bất kỳ một cuộc trò chuyện bằng tiếng Anh nào. Chẳng hạn như:

“Sorry?” “I don’t understand” khi bạn không hiểu điều gì đó
“Can you repeat please?” và “Can you speak slower?” khi bạn nghe không rõ
Khi muốn biết nghĩa của một từ/ cụm từ, hãy hỏi “ What does that mean?”
Khi không biết một từ/ cụm từ, hãy hỏi “How do you say … in English?”

5. Thành thạo các câu chào hỏi, tạm biệt

Một trong những cách nhanh nhất giúp bạn vượt qua nỗi sợ nói tiếng Anh là hãy thực hành sử dụng thành thạo các cụm từ chào hỏi và tạm biệt. Việc nói những câu chào hỏi trôi chảy sẽ tạo ra một ấn tượng ban đầu tốt đẹp với người đối diện và nhờ đó bạn cũng sẽ cảm thấy tự tin hơn để tiếp tục cuộc chuyện trò. Cũng tương tự như vậy, khi bạn nói tạm biệt một cách tự tin và thoải mái, bạn sẽ để lại ấn tượng tốt cho người đối diện sau khi cuộc trò chuyện kết thúc.

Chỉ với những cụm từ chào hỏi như ‘What’s up?” “What’s going on?” “How have you been?” là bạn đã có thể bắt đầu một cuộc trò chuyện với người khác tự nhiên, thân thiện rồi.

6. Luyện nói trước gương

Một cách hiệu quả để đập tan nỗi sợ nói của bạn là hãy thực hành nói tiếng Anh trước gương mỗi ngày. Việc nói trước gương sẽ giúp bạn quan sát và tự điều chỉnh khẩu hình miệng, cũng như ngôn ngữ hình thể của mình sao cho tự nhiên nhất. Bạn có thể dành ra vài chục phút mỗi ngày để nói về một chủ đề bất kỳ hay kể lại một câu chuyện. Hãy tưởng tượng mình đang ở trong một tình huống cần nói tiếng Anh, lúc đó bạn sẽ nói gì, người đối diện sẽ hỏi gì bạn và bạn sẽ trả lời họ ra sao. Trong trường hợp bí từ, hãy cố gắng diễn đạt lại ý của bạn theo một cách khác.
Sau một thời gian làm quen với việc nói tiếng Anh, bạn có thể luyện nói với bạn bè, hay người thân của mình. Bạn sẽ thấy mình vô tư, thoải mái nói những gì mình thích, không sợ người nghe phán xét hay chê cười. Và đặc biệt họ sẽ giúp bạn chỉ ra những lỗi sai mà bạn mắc phải để giúp bạn tiến bộ hơn.

7. Hát tiếng Anh

Hát cũng là một cách hiệu quả để giúp bạn tự tin nói tiếng Anh. Hãy bắt đầu với những bài hát đơn giản mà bạn yêu thích. Việc thường xuyên luyện hát các bài hát tiếng Anh sẽ giúp bạn hoàn thiện phát âm của mình đồng thời nhờ đó, bạn cũng sẽ quen dần với việc nói bằng tiếng Anh. Nếu bạn chưa biết luyện nói tiếng Anh qua bài hát như thế nào, hãy đọc bài viết này nhé!

8. Luyện nghe thật nhiều

Để có thể tham gia vào một cuộc đối thoại, trước hết chúng ta cần nghe và hiểu được những gì người kia đang nói. Do đó, kỹ năng quan trọng nhất mà bạn cần làm chủ trước trước khi bắt đầu nói chuyện được bằng tiếng Anh là kỹ năng nghe. Hãy tập quen dần với những âm thanh tiếng Anh và đắm mình trong môi trường tiếng Anh bất cứ lúc nào có thể. Tuy nhiên, hiệu quả của một cuộc trò chuyện không chỉ phụ thuộc vào khả năng nghe, hiểu và nói trôi chảy của bạn mà nó còn liên quan đến cách bạn giao tiếp, ứng xử và mức độ bạn am hiểu về văn hoá của những đất nước nói tiếng Anh (Cultural Fluency). Ngôn ngữ là một phần của văn hoá. Nhiều khi những lời được người bản địa nói ra còn ẩn chứa rất nhiều hàm ý khác nhau khiến cho những người học tiếng Anh thấy bối rối. Đã bao giờ bạn xem một bộ phim hài Anh và tự hỏi câu nói đùa trong phim có gì đặc biệt mà khiến lắm người cười nắc nẻ? Hay, nếu có ai đó nói với bạn ‘to be or not to be”, liệu bạn có chắc rằng mình hiểu câu đó nghĩa là gì không nếu như bạn chưa từng một lần đọc/ xem vở kịch Hamlet?

Tất nhiên để có thể hiểu và tương tác bằng tiếng Anh một cách tự nhiên dù trong môi trường nào, bạn cần phải giao tiếp thật nhiều và có một lượng kiến thức đủ rộng về mặt văn hoá của những đất nước nói tiếng Anh. Một cách dễ hơn là hãy xem phim, chương trình truyền hình, đọc sách, nghe nhạc và tham gia các sự kiện/ lễ hội của những nước nói tiếng Anh như Mỹ, Anh, Úc, Canada,… Việc này sẽ giúp bạn làm quen dần với văn hoá giao tiếp của những người bản địa.

 >> Nguồn: ejoy-english.com

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2018

Gian lận có được ngăn chặn tại kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019

Kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019 với một số điểm mới trong việc ngăn chặn gian lận thi cử được xã hội đón nhận với sự hy vọng xen lẫn hoài nghi...

Bộ GD-ĐT vừa chính thức công bố thông tin về kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019 với một số điểm mới trong việc ngăn chặn gian lận thi cử, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội. Thông tin này được đón nhận với sự hy vọng xen lẫn hoài nghi...



Kỳ thi THPT Quốc gia lần đầu tiên được tổ chức ở Việt Nam vào năm 2015 với hy vọng kết quả làm bài của thí sinh sẽ vừa để xét tốt nghiệp THPT và lấy đó làm căn cứ để xét tuyển vào các trường ĐH, CĐ. Kỳ thi cũng được kỳ vọng sẽ góp phần giảm áp lực, tốn kém kinh phí của xã hội.


Nếu như trước năm 2015, việc giao cho các trường ĐH, CĐ tổ chức thi thì thí sinh từ nhiều vùng miền xa xôi phải lên các thành phố lớn từ 1 đến 2 ngày trước kỳ thi, thuê phòng trọ, tốn kém thời gian, công sức và kinh phí cho việc ăn ở, đi lại thì từ năm 2015, chúng ta không còn thấy cảnh tượng đó.

Tình trạng ùn tắc giao thông cũng không còn xảy ra ở nhiều tuyến phố hay tại cổng trường, xung quanh các trường ĐH, CĐ. Đây cũng là những điều đáng ghi nhận trong công tác tổ chức thi của Bộ GD-ĐT nhằm giảm căng thẳng, tốn kém cho xã hội.

Tuy nhiên, năm đầu tiên tổ chức kỳ thi, thí sinh được nộp 4 nguyện vọng vào 1 trường ĐH và có thể rút-nộp hồ sơ nên đến những ngày cuối cùng của đợt xét tuyển ĐH, cảnh tượng hàng nghìn thí sinh và người nhà “ăn trực, nằm chờ” ở trước các trường ĐH vẫn tái diễn.

Thí sinh hoang mang rút nộp hồ sơ, đặt tiềm tin chọn ngành nghề, trường học vào sự may rủi vào những giây phút hoảng loạn cuối cùng chốt thời gian xét tuyển. Cho đến nay, nhiều người vẫn nhắc lại cảnh tượng đó như “chơi chứng khoán”, “ong vỡ tổ”. Với sự bất cập này, kỳ thi THPT Quốc gia năm 2015 không đạt được kỳ vọng giảm áp lực, tốn kém cho xã hội.

Để khắc phục hạn chế của kỳ thi năm 2015, kỳ thi THPT Quốc gia năm 2016, 2017, Bộ GD-ĐT đã thay đổi việc đăng ký nguyện vọng của thí sinh nên khắc phục được tình trạng xét tuyển ĐH như “chơi chứng khoán”.


Với kỳ thi THPT Quốc gia năm 2017, đề thi được đánh giá là quá dễ nên kết quả là quá dễ nên hàng nghìn thí sinh được điểm 10, với gần 4.200 bài, tăng gấp hàng chục lần so với năm 2016. Dư luận xã hội đã đặt nhiều ý kiến khác nhau về việc điểm 10 tăng mạnh liệu có phải chất lượng giáo dục của chúng ta cũng tăng hay chỉ là những con số ảo.

Thắc mắc, hoài nghi và cả vui mừng đã được đề cập nhưng trong kỳ thi năm 2017, vẫn không phát hiện ra gian lận, tiêu cực trong khâu chấm thi. Điều này chỉ được làm sáng tỏ khi năm 2018, Bộ GD-ĐT “thắt chặt” việc ra đề thi đến nỗi nhiều thí sinh và chuyên gia giáo dục đều nhận định, đề thi năm nay quá khó. Tuy nhiên, khi nhìn vào phổ điểm thi của tất cả các môn ở các địa phương, nhiều nhà giáo, chuyên gia giáo dục đặt nghi vấn điểm thi của tỉnh Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình và một số địa phương khác có sự bất thường.

Qua xác minh kết quả chấm thi THPT Quốc gia ở Hà Giang có hơn 100 bài thi được nâng từ 1 đến 8 điểm. Không ít thí sinh có tổng điểm chênh lên hơn 20 điểm so với điểm chấm thẩm định. Cá biệt có những thí sinh có tổng điểm được làm tăng lên đến 26,8 điểm, thậm chí 29,95 điểm so với điểm chấm thẩm định.

Tiếp theo đó, kết quả thẩm tra điểm thi THPT Quốc gia ở Sơn La cho thấy, hành vi nâng điểm được thực hiện từ trực tiếp bài thi của thí sinh nên sự phát hiện khó hơn cho cơ quan điều tra. Còn tại Hòa Bình, bước đầu, Bộ GD-ĐT và cơ quan công an xác minh có dấu hiệu can thiệp làm thay đổi trên phiếu trả lời trắc nghiệm của thí sinh để làm thay đổi kết quả bài thi.


Bộ GD-ĐT họp báo, công bố kết quả rà soát điểm thi THPT Quốc gia năm 2018 bất thường ở Hà Giang.
Bộ GD-ĐT họp báo, công bố kết quả rà soát điểm thi THPT Quốc gia năm 2018 bất thường ở Hà Giang.

Có thể nói, sự việc gian lận, làm thay đổi kết quả điểm thi THPT Quốc gia xảy ra ở Hà Giang, Sơn La, Hòa Bình với những kết luận ban đầu đã công bố là một thất bại nặng nề của một kỳ thi quốc gia và ai cũng thấy đau xót. Niềm tin vào một kỳ thi quan trọng với gần triệu thí sinh, hàng triệu người thân, hàng triệu giáo viên tổn thương và mất mát.

Mặt dù những người vi phạm đã bị bắt giữ, vụ việc đã được khởi tố nhưng điều mà xã hội cảm thấy đau xót là những vụ việc gian lận, làm thay đổi điểm số bài thi của thí sinh đều liên quan đến những người làm trong ngành Giáo dục. Họ đã từng đứng trên bục giảng, công tác và quản lý trong ngành nhưng đã làm mất đi hình ảnh đẹp đẽ về người thầy, cô giáo.

Cho đến nay, việc xác minh gian lận thi cử tại một số địa phương vẫn đang được cơ quan công an điều tra làm rõ. Những mặt tích cực và hạn chế của kỳ thi đã được ngành Giáo dục và các đơn vị liên quan phân tích. Chính phủ vẫn quyết định trong năm 2019, vẫn tiếp tục tổ chức kỳ thi THPT Quốc gia. Điều quan trọng là cần có những giải pháp hữu hiệu hơn để ngăn chặn sự can thiệp vào bài thi của thí sinh.

Vì vậy, nhiều giải pháp đã được đưa ra như: phải scan bài thi ngay sau khi kết thúc thời gian làm bài, tổ chức thi trắc nghiệm ngay trên máy tính và Bộ GD-ĐT cũng vừa thông báo sẽ đánh phách điện tử phiếu trắc nghiệm, yêu cầu các trường ĐH đặt camera giám sát phòng chứa tủ đựng đề thi, bài thi 24 giờ/ngày. Bên cạnh đó là tăng cường trách nhiệm của các đối tượng có liên quan trong bảo quản đề thi, bài thi tại điểm thi, hội đồng thi...

Những giải pháp để ngăn ngừa sự can thiệp của con người làm thay đổi kết quả thi của thí sinh đang tiếp tục được đưa ra với những quyết tâm cao của ngành Giáo dục nhằm ngăn chặn tiêu cực, gian lận. Giải pháp nào hữu hiệu nhất thì chúng ta vẫn phải đợi chờ kết quả của kỳ thi THPT Quốc gia năm 2019 và cần có sự nhìn nhận, đánh giá kỹ lưỡng.

Tuy nhiên, ngăn chặn, chống gian lận thi cử là phải từ việc chống tiêu cực trong tư tưởng của mỗi con người. Dù máy móc, thiết bị có hiện đại như thế nào đi chăng nữa mà ý thức của người tham gia công tác coi thi, chấm thi không tốt thì vẫn có thể xảy ra sai phạm.

>> Nguồn:  Bích Lan - VOV

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018

Bộ trưởng Giáo dục: "Cần khơi dậy môi trường mọi người thích nói tiếng Anh"


Ngày 8/12, Bộ GD-ĐT tổ chức tọa đàm về "Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ - đặc biệt là tiếng Anh trong hệ thống giáo dục quốc dân". Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng cần xây dựng một cộng đồng nói tiếng Anh, khơi dậy một môi trường mà mọi người thích nói, đọc tiếng Anh, và không chỉ học sinh sinh viên mà cả người trưởng thành đều có thể học ngoại ngữ.

Bộ trưởng Giáo dục: "Cần khơi dậy môi trường mọi người thích nói tiếng Anh"
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ  tại buổi tọa đàm


Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia đến từ các tổ chức như EF, IIG Việt Nam, Công ty giáo dục Việt Úc, EMG, Apollo, Egroup… đã đề xuất, tham mưu nhiều giải pháp liên quan đến chương trình, học liệu, phương pháp tổ chức dạy học, nâng cao chất lượng công tác khảo thí và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ,  đặc biệt là tiếng Anh.

Hầu hết các ý kiến thống nhất cho rằng giáo viên đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, nên việc xây dựng đội ngũ giáo viên đạt yêu cầu về chất lượng và đảm bảo đủ số lượng là cần thiết.

Bên cạnh đó, để cải tiến chương trình học hiện nay, cần gắn việc dạy ngoại ngữ với các môn học khác để tạo hứng thú cho học sinh.

Về cải tiến chương trình, học liệu, bà Bùi Hiền Thục, Giám đốc Công ty Giáo dục Việt Úc cho rằng việc dạy ngoại ngữ cần gắn với các môn học, môn chuyên ngành nhằm tạo hứng thú và hiệu quả học tập cho học sinh. Bà cũng đề xuất mô hình dạy Tiếng Anh - Toán, Tiếng Anh - Thể dục - Âm nhạc hiện đang được áp dụng tại một số trường phổ thông...

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đánh giá cao giải pháp mà các đại biểu đã đưa ra nhằm “hiến kế” cho việc nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ, đặc biệt là Tiếng Anh trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Bộ trưởng Giáo dục: 'Cần khơi dậy môi trường mọi người thích nói tiếng Anh'
Ông Nhạ lưu ý đến việc chuẩn hóa chương trình, học liệu và tính thiết thực của việc dạy học Tiếng Anh.

Theo ông Nhạ, hiện nay, các chương trình, học liệu học Tiếng Anh tại Việt Nam rất đa dạng, nhưng cần có một chương trình chuẩn hóa, thiết thực, tránh hàn lâm để học sinh dễ tiếp cận, không phải đọc nhiều sách, phụ huynh không phải mua nhiều sách, gây lãng phí. Chương trình này phải tương đối phổ biến và cố gắng số hóa để các trường khu vực vùng sâu, vùng xa, thiếu giáo viên dạy ngoại ngữ đạt chuẩn vẫn có thể tiếp cận được.
Việc dạy và học ngoại ngữ cần phải thiết thực, ứng dụng, coi ngoại ngữ là công cụ để giao tiếp, học thực chất, tránh tình trạng học đối phó, học vì bằng cấp, chứng chỉ. Cần xây dựng một cộng đồng nói tiếng Anh, khơi dậy một môi trường mà mọi người thích nói Tiếng Anh, thích đọc Tiếng Anh, một xã hội học tập, tạo thành phong trào sâu rộng, người biết nhiều dạy cho người biết ít, không chỉ với học sinh, sinh viên mà cả người trưởng thành, toàn dân đều có thể học ngoại ngữ.

Các trường đại học, nhất là các trường đại học công nghệ có thể nhập chương trình của nước ngoài bằng tiếng Anh về giảng dạy và tổ chức các buổi sinh hoạt, thảo luận bằng Tiếng Anh. Có thể đưa một số môn học như Toán, Khoa học Tự nhiên vào giảng dạy bằng Tiếng Anh trong nhà trường. Qua đó, tăng tính hiệu quả của việc học ngoại ngữ.

Bên cạnh đó, mục tiêu học ngoại ngữ của mỗi người khác nhau nên cần đa dạng hóa các mô hình giảng dạy theo hướng, các trường phổ thông dạy nội dung cơ bản, mang tính ứng dụng thực tiễn cao. Những học sinh có nhu cầu sử dụng ngoại ngữ trong học tập, nghiên cứu hoặc đi du học có thể tìm đến các trung tâm đào tạo chuyên sâu ngoài nhà trường.

Về vấn đề khảo thí, ông Nhạ nhấn mạnh Bộ GD-ĐT sẽ xem xét việc xây dựng trung tâm khảo thí độc lập, uy tín, có thể mời các tổ chức kiểm định quốc tế có kinh nghiệm để đánh giá chất lượng của các trung tâm giảng dạy ngoại ngữ tại Việt Nam hiện nay, đảm bảo khách quan, không để thả nổi, buông lỏng chất lượng. Các trung tâm đều phải kiểm định và được xếp hạng khi tham gia hoạt động giảng dạy.

Bộ GD-ĐT cũng đang xem xét các giải pháp đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Giáo viên phải được chuẩn hóa, bồi dưỡng đào tạo theo thực tế, phù hợp theo yêu cầu của từng cấp học. Đổi mới phương thức bồi dưỡng giáo viên bằng công nghệ, giảm cách bồi dưỡng truyền thống không thiết thực. Đồng thời tăng cường xã hội hóa, tạo động lực cho giáo viên tự học để nâng cao kiến thức.

“Tất cả các giải pháp đặt ra đều hướng đến mục đích cuối cùng là tạo môi trường tốt nhất cho việc dạy và học ngoại ngữ đạt hiệu quả. Nếu thế hệ trẻ có được kỹ năng Tiếng Anh cùng kiến thức công nghệ thông tin vững chắc thì chắc chắn sẽ hiện thực hóa được rất nhiều khát vọng.

Chúng ta sẽ làm được nếu thực hiện tốt ngay từ bây giờ. Để trong 20 năm tới, khi Tiếng Anh tốt, công nghệ thông tin mạnh thì chắc chắn nền giáo dục sẽ thay đổi” - ông Nhạ nói.

>> Nguồn: Thanh Hùng

Thứ Tư, 5 tháng 12, 2018

Kỹ năng phản biện – tầm quan trọng và cách rèn luyện

Kỹ năng phản biện được sử dụng khá nhiều trong cuộc sống và công việc của mỗi ngày. Vậy kỹ năng phản biện là gì, tầm quan trọng và cách rèn luyện khả năng này thế nào, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu qua bài viết sau đây.

Kỹ năng phản biện – tầm quan trọng và cách rèn luyện
Tư duy phản biện là kỹ năng cần thiết cho cuộc sống

1. Kỹ năng phản biện là gì?

Kỹ năng phản biện là kỹ năng sử dụng những luận cứ và dẫn chứng để đưa ra ý kiến, bảo vệ quan điểm của mình; kết hợp cùng việc đánh giá, phân tích, đánh giá thông tin theo những cách nhìn khác nhau nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề.

2. Tầm quan trọng của kỹ năng phản biện

2.1. Kỹ năng tư duy phản biện nâng cao khả năng bao quát tình hình

Việc suy nghĩ một cách rõ ràng và hệ thống, dựa vào vốn kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy và lòng tin cá nhân để phân tích vấn đề cần phản biện; giúp nhìn nhận, suy luận để đi đến những kết luận xa hơn, logic hơn.

2.2. Kỹ năng tư duy phản biện nâng cao khả năng ngôn ngữ và trình bày

Phản biện là quá trình giao lưu ngôn ngữ, đòi hỏi cá nhân muốn chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn thì phải đưa ra những lập luận xác đáng, logic và thu hút. Chính vì thế, phản biện được coi là công cụ đắc lực giúp năng lực sử dụng ngôn ngữ và trình bày, là cách thức giúp phát triển trí tuệ hiệu quả.

2.3. Kỹ năng tư duy phản biện thúc đẩy sự sáng tạo

Kỹ năng tư duy phản biện giúp thúc đẩy sự sáng tạo. Các giải pháp sáng tạo được đưa ra với những ý tưởng mới, và nó thực sự có giá trị khi hữu ích và có liên quan đến công việc đang diễn ra. Tư duy phản biện đóng một vai trò quan trọng, hỗ trợ đắc lực trong việc đánh giá những ý tưởng mới, chọn những ý tưởng tốt nhất và sửa đổi chúng nếu cần thiết.

2.4. Kỹ năng tư duy phản biện quan trọng cho sự tự đánh giá

Tư duy phản biện là công cụ quan trọng trong quá trình tự đánh giá bản thân. Để sống một cuộc sống có ý nghĩa, ta cần phải minh chứng và phản ánh các giá trị và quyết định của mình là đúng đắn. Đúng hay sai, so sánh những lợi ích và bất lợi của từng lựa chọn để quyết định hợp lý nhất, tư duy phản biện giúp bạn làm điều đó.

3. Cách rèn luyện kỹ năng tư duy phản biện 20 phút mỗi ngày

Theo các nghiên cứu khoa học, nếu bạn thực hành 1 kỹ năng nào đó trong 20 phút mỗi ngày liên tục trong 30 ngày thì kỹ năng đó sẽ ăn sâu vào não bộ và thực sự trở thành kỹ năng của bạn. Hãy dành 20 phút mỗi ngày để tập luyện những kỹ năng chi tiết dưới đây để tự rèn cho mình kỹ năng tư duy phản biện.

Kỹ năng phản biện – tầm quan trọng và cách rèn luyện


3.1. Rèn luyện kỹ năng phân tích

Khi bạn đã có thông tin, hãy phân tích tất cả với một tâm trí mở, khách quan, không áp đặt thành kiến cá nhân. Hãy tạo thói quen dùng trực giác của mình để tìm hiểu những điều cần nghi vấn trong nhóm các thông tin nhận được, hãy yêu cầu người đối diện trình bày thêm nếu bạn chưa thực sự thỏa man. Bạn sẽ nhanh chóng  xác định được đâu là những thứ cần tìm hiểu thêm, đâu là những thứ có thể xem là chính xác dựa trên đánh giá của bản thân.

3.2. Rèn luyện kỹ năng phản biện khi giao tiếp

Cho dù bạn suy nghĩ thấu đáo đến đâu nhưng không biết cách giao tiếp, thể hiện được quan điểm cá nhân với người khác thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Hãy luyện tập để vừa biết cách trình bày hết ý của mình với người khác. Cùng với đó, lắng nghe, tiếp thu và cảm thông cho người khác để đưa ra giải pháp hợp lý sau cùng.

3.3. Rèn luyện kỹ năng tư duy phản biện bằng cách nâng cao khả năng sáng tạo

Để có kỹ năng phản biện hiệu quả cần nâng cao khả năng sáng tạo, trau dồi kiến thức một cách tổng quát, nắm vững thông tin đa dạng về các lĩnh vực để có thể tranh luận và bảo vệ luận điểm với người khác một cách dễ dàng. Tuy nhiên, vấn đề cần nói ở đây là các bạn phải trao dồi kiến thức một cách tổng quát, nắm vững thông tin đa dạng về các lĩnh vực đối với ngành nghề mình đang làm việc.

3.4. Rèn luyện kỹ năng tư duy phản biện bằng cách giải quyết vấn đề

Rèn luyện kỹ năng tư duy phản biện bằng cách giải quyết vấn đề là một trong những phương pháp tối ưu. Khi đối diện một vấn đề nào đó, cần nắm rõ thông tin chính xác về vấn đề gì, liên quan đến lĩnh vực gì? Sau đó, dựa trên những cơ sở khoa học và logic, hãy lên những câu hỏi để làm rõ vấn đề, từ những điều đó rút ra kết luận và nguyên nhân cho vấn đề trên.

3.5. Hãy “tò mò”, đặt câu hỏi và tìm câu trả lời

Đặt câu hỏi là việc khởi đầu cho mọi quá trình học tập. Việc đặt câu hỏi không đơn thuần giúp bạn có được câu trả lời, mà còn giúp bạn có được cái nhìn rộng và khách quan hơn để lựa chọn giữa nhiều luồng thông tin. Hầu hết những người có tư duy phản biện luôn tò mò và có thói quen tự đặt câu hỏi cho những gì đang diễn ra.

Kỹ năng tư duy phản biện tạo điều kiện phân tích, đánh giá, xây dựng lại định hướng suy nghĩ của bạn. Hy vọng qua bài viết, các bạn sẽ hiểu thêm về kỹ năng tư duy phản biện và có kế hoạch tập luyện để nâng cao kỹ năng thiết yếu này.

>> Nguồn: Cẩm nang giáo dục

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2018

Thi THPT quốc gia 2019: Vừa học ôn, vừa phấp phỏng

Còn khoảng 7 tháng nữa, kỳ thi THPT quốc gia 2019 mới chính thức diễn ra. Thế nhưng, cho đến nay các điều chỉnh của kỳ thi vẫn chỉ mang tính dự kiến, trong đó có mở rộng đề thi tới lớp 10. Bởi thế, thầy trò chỉ biết vừa học, vừa ôn và chờ đợi phương án chính thức được công bố…

Đề thi được mở rộng

Liên quan tới công tác thi THPT quốc gia 2019, ông Phạm Như Nghệ - Vụ Phó Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT đã thông tin một số điểm dự kiến điều chỉnh trong phương án thi 2019.

Thi THPT quốc gia 2019: Vừa học ôn, vừa phấp phỏng
Thầy trò lớp 12 mong sớm có phương án thi chính thức cho kì thi 2019. (Ảnh minh họa)


Theo đó, giống như các năm trước, Bộ GD&ĐT chỉ tổ chức một kỳ thi THPT quốc gia để lấy kết quả xét tốt nghiệp THPT và làm căn cứ xét tuyển đại học. Quá trình ra đề, Bộ luôn hướng đến việc đạt hai mục tiêu này và yêu cầu câu hỏi trong bài không quá đánh đố học sinh. Tuy nhiên, ông Nghệ nhận định, mong muốn là như thế nhưng thực tế để đạt được là việc không dễ.

Theo ông Nghệ, đơn cử chuyện đề thi THPT quốc gia năm 2017 bị cho là quá dễ, dẫn đến “mưa” điểm 10, học sinh đạt 27-29 điểm vẫn chưa chắc trúng tuyển vào ngành/trường mong muốn. Năm 2018, vẫn với chỉ đạo ra đề để đạt hai mục tiêu, ban làm đề được lựa chọn cẩn trọng gồm nhiều giáo viên, giảng viên giỏi từ trường phổ thông, đại học, nhưng đề thi lại bị phản ứng là quá khó.

Dẫn đến mức điểm trung bình của hầu hết các môn đều dưới 5,0 điểm. Bởi thế, để khắc phục tình trạng của 2 năm trước, năm nay Bộ GD&ĐT dự kiến cho học sinh làm thử và giáo viên phản biện đề với số lượng lớn hơn, phạm vi rộng hơn, đảm bảo cho đề chính thức đạt mục tiêu vừa xét tốt nghiệp THPT, vừa đủ phân hóa để các trường căn cứ vào đó xét tuyển đại học.

Theo đó, phạm vi kiến thức trong đề thi, theo ông Nghệ, sẽ bao gồm cả lớp 10, 11, 12, trong đó kiến thức lớp 12 là chủ yếu. Điều này đã được thông báo từ năm 2017. 

Đồng thời, theo dự kiến, việc chấm thi, đặc biệt là bài trắc nghiệm sẽ không giao các địa phương chủ trì như trước đây mà chuyển cho các trường đại học. Có thể, Bộ GD&ĐT sẽ dồn vào một số điểm để chấm chứ không phải chấm tại tất cả 63 tỉnh, thành.

Việc coi thi cũng có thay đổi. Trước đây Bộ giao cho các Sở Giáo dục chủ trì, phối hợp với các trường đại học ở trung ương và địa phương. Năm 2019, công tác này dự kiến được thay đổi theo hướng trường đại học/cao đẳng địa phương sẽ không tham gia coi thi tại địa phương đó. Ví dụ, trường đại học ở tỉnh Nam Định sẽ không coi thi ở Nam Định mà phải chuyển đi coi thi ở tỉnh khác.

Bộ GD&ĐT cũng nâng cao phần mềm chấm thi, cách quản lý bài thi, điểm thi cũng có những điều chỉnh để đảm bảo sự chính xác, khách quan cho kết quả thi của thí sinh, đủ tin cậy để làm căn cứ xét công nhận tốt nghiệp và tuyển sinh đại học.

Xét tuyển dựa vào kỳ thi THPT quốc gia


Về tuyển sinh đại học, năm 2019, Bộ GD&ĐT vẫn chủ trương các trường được phép tuyển nhiều đợt trong năm. Số đợt là do hiệu trưởng quyết định. Mặc dù vậy, ông Nghệ lưu ý quy định như vậy, giao quyền chủ động cho các trường nhưng thực chất những trường đại học ở tốp giữa và tốp trên chỉ tuyển 1 lần là đủ, số lượng chỉ tiêu tuyển bổ sung rất ít nên học sinh cần phải lưu ý trong chọn nguyện vọng.

Nhiều lo ngại cho rằng, kì thi chủ yếu để xét tốt nghiệp thì chất lượng tuyển sinh có đảm bảo? Các trường có thay đổi gì trong thi và xét tuyển không, là những băn khoăn lo ngại của thí sinh năm nay.

Về vấn đề này, ông Mai Văn Trinh, Cục trưởng Cục Quản lý Chất lượng, Bộ GD&ĐT cho hay, nhìn nhận kết quả thi THPT quốc gia chỉ là một trong các căn cứ được sử dụng để tuyển sinh theo tinh thần tự chủ được quy định trong Luật Giáo dục ĐH, vì thế mức độ sử dụng kết quả của kỳ thi THPT quốc gia phụ thuộc nhu cầu của từng trường.

Tuy nhiên, hầu hết các trường ĐH vẫn cho rằng, rất khó để tuyển sinh riêng, bởi vô cùng tốn kém và vất vả cho thí sinh cũng như các nhà trường. Bởi thế, các trường vẫn xét tuyển như mọi năm.

Và trước những băn khoăn, lo lắng của các thí sinh, ông Mai Văn Trinh khẳng định: “Các thay đổi, điều chỉnh trong kỳ thi THPT quốc gia 2019 và những năm tới đây đều hướng tới bảo đảm cho kỳ thi thực chất, công bằng hơn, hướng tới thuận lợi cho thí sinh.

Tôi muốn nhắn nhủ tới các thí sinh của kỳ thi THPT quốc gia sắp tới, đó là những thay đổi chủ yếu liên quan đến các vấn đề kỹ thuật. Các điều chỉnh, nếu có chỉ tập trung vào người tổ chức thi, còn phía học sinh thì căn bản là ổn định, không thay đổi, nên các em yên tâm học tập. Bộ GD&ĐT sẽ ban hành quy chế, hướng dẫn về kỳ thi THPT quốc gia trong thời gian sớm nhất.

Thời gian thi cố gắng giữ ổn định để các Sở GD&ĐT chủ động trong kế hoạch năm học. Tôi đề nghị các Sở GD&ĐT trên phạm vi cả nước chủ động triển khai kế hoạch năm học theo hướng dẫn để bảo đảm thi không phải là mục tiêu cuối cùng mà quan trọng hơn là tổ chức giảng dạy để học sinh có kiến thức, kĩ năng tốt nhất bước vào kỳ thi này cũng như có thể sẵn sàng bước vào cuộc sống”. 

>> Nguồn: Báo pháp luật

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2018

Top 10 quốc gia có trình độ học vấn cao nhất thế giới 2018

Bảng đánh giá xếp hạng giáo dục năm 2018 do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) công bố cho thấy bất chấp tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều biến động và khó khăn, song tỷ lệ người tốt nghiệp cao đẳng và đại học trên toàn cầu vẫn đang tăng lên. Tuy nhiên, có một nghịch lý khiến ai cũng ngỡ ngàng là số người đạt trình độ đại học trở lên tại các nước giàu có lại “lép vế” so với những nền kinh tế đang phát triển. Do đó, những quốc gia có trình độ học vấn cao nhất thế giới lại không phải là Mỹ, Anh, Pháp… mà lại chính là những nước như Nhật Bản hay Canada.

Top 10 quốc gia có trình độ học vấn cao nhất thế giới 2018
Bảng xếp hạng 10 quốc gia có trình độ học vấn cao nhất thế giới 2018


OECD định nghĩa trình độ học vấn người trưởng thành của một quốc gia được tính theo tỷ lệ % dân số trong độ tuổi từ 25-64 đã tốt nghiệp một số loại hình giáo dục bậc đại học theo hình thức văn bằng hai năm (đại học cộng đồng, college), văn bằng bốn năm hoặc chương trình học nghề.

Dưới đây là 10 quốc có trình độ học vấn cao nhất thế giới xếp theo thứ tự từ thấp đến cao:

10. Luxembourg               42,86%

9. Na Uy                          43,02%

8. Phần Lan                      43,60%

7. Australia                       43,74%

6. Mỹ                               45,67%

5. Vương quốc Anh            45,96%

4. Hàn Quốc                      46,86%

3. Israel                            49,90%

2. Nhật Bản                       50,50%

1. Canada                          56,27%


Theo bảng đánh giá xếp hạng của OECD, Canada là quốc gia có trình độ học vấn ở người trưởng thành cao nhất thế giới với hơn 56% người trong độ tuổi từ 25-64 đã hoàn thành ít nhất một khóa đào tạo bậc đại học.

Tại Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2016 tại Davos (Thụy Sĩ), Thủ tướng Canada Justin Trudeau tự hào khẳng định rằng giáo dục chính là nguồn tài nguyên lớn nhất của quốc gia này.

Nhà lãnh đạo Canada nhấn mạnh: “Chúng tôi cần giáo dục để giúp người dân học hỏi, tư duy và thích nghi. Các nguồn tài nguyên tự nhiên của chúng tôi là rất quan trọng, và sẽ luôn là như vậy. Nhưng người Canada hiểu rằng nhân tố mang lại sự phát triển và thịnh vượng cho đất nước không phải là những gì ở dưới chân chúng ta, mà là những gì chúng ta tiếp nhận". Tiếp sau Canada là các nước có trình độ học vấn cao như Nhật Bản, Israel và Hàn Quốc. Mỹ đứng thứ sáu trong danh sách của OECD.


Điều đáng lưu ý trong bảng xếp hạng này là mặc dù hàng năm Mỹ đều đứng đầu danh sách nước có các trường đại học tốt nhất thế giới và số lượng sinh viên tham gia học đại học không ngừng tăng, OECD vẫn xếp Mỹ đứng thứ 6 về trình độ học vấn người trưởng thành.

heo OECD, 45,67% người Mỹ trưởng thành trong độ tuổi từ 25-64 đã tốt nghiệp một loại hình giáo dục nào đó theo hình thức văn bằng 2 năm, văn bằng 4 năm hoặc học nghề. Tổng điều tra của Mỹ ước tính rằng khoảng 33% người trưởng thành ở Mỹ có bằng cử nhân trở lên.

Theo các nhà phân tích, nguyên nhân khiến cho trình độ học vấn tại các quốc gia có sự chênh lệch phần lớn là do quy mô đầu tư vào giáo dục có sự khác nhau. Có một điều thú vị là tại những quốc gia có trình độ học vấn cao nhất, kinh phí của nhà nước dành cho các tổ chức giáo dục so với chi phí của tư nhân là tương đối thấp so với các nước khác trong OECD.
>> Nguồn: anninhthudo

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2018

Góc nhìn từ giáo dục Hoa Kỳ về Giáo dục Việt Nam

Việt Nam không thể là ngoại lệ khi đã và đang có những hiện tượng không mong muốn diễn ra trong giáo dục.

Nếu truy vấn thông tin về khủng hoảng giáo dục trên quy mô toàn cầu thì kết quả của cỗ máy tìm kiếm Google cho ra gần 600 triệu bài viết. Trong đó, có khoảng 500 triệu bài về khủng hoảng giáo dục ở Hoa Kỳ, 162 triệu bài về khủng hoảng giáo dục ở Nhật Bản và gần 300 triệu kết quả về khủng hoảng giáo dục ở Anh… Như vậy, tại các nước phát triển, con số bài viết về khủng hoảng giáo dục đều tính bằng hàng trăm triệu trở lên. Trong khi đó, ở Việt Nam con số tìm được mới khoảng 9,2 triệu.

Chưa "thừa thầy, thiếu thợ" 


Tỉ lệ vào đại học của người Việt đang ở dưới mức trung bình toàn cầu, tức là mới 30% thanh niên được thụ hưởng nền giáo dục đại học. Trong khi đó, ở các nền kinh tế phát triển như Singapore, Nhật Bản, Hồng Kông… thì tỉ lệ này dao động từ 80-100%. Nghĩa là Việt Nam không hề "thừa thầy thiếu thợ" như nhiều người lo ngại. "Việt Nam muốn phát triển hơn nữa thì vẫn cần phải nâng tỉ lệ này lên", TS. Huỳnh Thế Du khẳng định.

Ngoài ra, trong số 20 quốc gia có du học sinh nhiều nhất thế giới thì Việt Nam đứng thứ 9. Nhìn tổng quan có thể thấy số du học sinh của các nền kinh tế thịnh vượng luôn đông đảo hơn hẳn những nơi khác. Những nước mà du học sinh Việt Nam tìm tới cũng đa số là các nước phát triển. Có nghĩa là, khi được xếp vào nhóm nước có số du học sinh đông đảo thì đây chính là dấu hiệu tốt cho sự phát triển của quốc gia chứ không phải là hiện tượng "tị nạn giáo dục" như một số ý kiến quan ngại.

Giáo dục Việt Nam Góc nhìn từ giáo dục Hoa Kỳ
TS. Huỳnh Thế Du phát biểu tại hội thảo - Ảnh: M.G


Việt Nam cũng được xếp ở nhóm nước có tỉ lệ chi ngân sách khá lớn cho giáo dục, cũng là nơi có rất nhiều lựa chọn về giáo dục và đào tạo, từ phổ cập tới chuyên biệt. Người học có thể đi theo lộ trình bình thường với các trường công lập, dân lập, tư thục hoặc lộ trình với tiêu chuẩn quốc tế từ bậc tiểu học tới tận đại học.

Chỉ số vốn con người theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới cũng cho thấy ở châu Á, Việt Nam tuy bị xếp sau các nước phát triển nhưng vẫn tương đương với Trung Quốc và xếp cao hơn tất cả các nước còn lại.

Bảng tổng sắp về Đổi mới sáng tạo của WIPO (Tổ chức Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ thuộc Liên Hợp Quốc) cũng đưa Việt Nam vào vị thứ 45 trên tổng số gần 200 quốc gia. Nếu xét trong nhóm nước có thu nhập trung bình thấp thì Việt Nam còn được xếp thứ 2 toàn cầu.

Có nên "nhập khẩu" chương trình giáo dục?


Với vai trò nhà hoạch định chính sách giáo dục, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới cho hay, các chương trình giáo dục của chúng ta trước đây chỉ thiên về cung cấp kiến thức cho người học, nhằm trả lời câu hỏi học sinh biết gì sau khi học. Trong khi đó, với chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ tiến tới phát triển toàn diện người học, để trả lời câu hỏi “Học sinh biết làm những gì”.
Chỉ ra những khó khăn, Giáo sư Thuyết cho rằng phần lớn học sinh không xác định được mục đích học tập, thấy bạn điểm cao thì mình cũng phải điểm cao, phần lớn cũng một phần từ phụ huynh, Giáo sư Thuyết dẫn chứng: “Các vị phụ huynh quan tâm học sinh theo cách hơi lệch lạc. Trước hết là họ chỉ quan tâm thành tích của con bằng điểm số. Chính vì thế có nhiều phụ huynh phải dạy trước cho con. Việc này theo tôi không có lợi. Mình tạo nếp sống cho con tốt, dạy con đạo đức, tạo cho con nếp học tập, phương pháp học tốt… quan trọng hơn nhiều so với điểm số”.
Chia sẻ một số kinh nghiệm từ giáo dục Hoa Kỳ mà trường đang áp dụng, bà Đàm Bích Thủy, Chủ tịch Đại học Fullbirght Việt Nam, có những ý kiến, khi đưa một chương trình giáo dục của Hoa Kỳ áp dụng vào điều kiện giáo dục của Việt Nam, mặc dù nó ưu việt, nhưng liệu chương trình có còn thực sự đáp ứng nhu cầu của thế kỷ 21 hay không, có nên “nhập khẩu” nguyên chương trình hay không, có phù hợp với nhu cầu học tập của Việt Nam hay không.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cũng cho biết thêm, những đặc điểm nổi bật của chương trình giáo dục phổ thông mới thể hiện ở tính mở: không bó buộc người giáo viên phải theo sách giáo khoa, học sinh lựa chọn môn học thích hợp, cũng có thể học ít môn hơn. “Dân chủ” và “Thực học”, là hai triết lý giáo dục quan trọng khi áp dụng chương trình mới, để phát triển giáo dục trong tương lai.
>> Nguồn: Nhịp cầu đầu tư